Vũ Đình Hòe, một cử nhân luật học thời Tây, từng viết: "Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng đồng làng xã."
"Vì không có làng xã Việt Nam, thì không có quốc gia Việt Nam."
Những năm gần đây tại Việt Nam, vấn đề làng xã cũng là chủ đề thảo luận, với chủ trương phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Việc tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà nước với làng xã trong chiều dài lịch sử Việt Nam có thể bổ ích và cần thiết để hiểu những vấn đề của làng xã nông thôn Việt Nam hiện tại.
Một sêri hai kỳ của đài BBC sẽ điểm qua một số điểm trong mối quan hệ này, với phần một nói về thời chế độ quân chủ và thuộc địa, và phần hai nói về đổi thay ở nông thôn thời kỳ hậu 1945.
Phần một tuần này do Lê Quỳnh thực hiện, có khách mời là giáo sư Nguyễn Thế Anh, nguyên viện trưởng viện Đại học Huế từ năm 1966 đến 1969.
Từ năm 1991 tới nay, ông Nguyễn Thế Anh là giáo sư tại Học viện cao học (EPHE) ở Paris, dạy môn Lịch sử và văn minh bán đảo Đông Dương.
Làng – đơn vị căn bản
Suốt nhiều thế kỷ, làng xã là nhân tố cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại Việt Nam.
Theo GS. Nguyễn Thế Anh, ‘làng là đơn vị kinh tế, xã hội căn bản của các nhóm người lập cư trong một vùng nhất định. Để hiểu một xã hội, có lẽ cũng cần biết về đơn vị căn bản đó, tức là làng.’
Thành ngữ ‘phép vua thua lệ làng’ thường được dùng để nói làng Việt có sự độc lập với chính quyền trung ương. Làng ̣được xem có tính tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn.
Tuy vậy, GS. Nguyễn Thế Anh gọi đây chỉ là cách nói tổng quát, còn trên thực tế, trung ương luôn có khuynh hướng đặt quyền hành của mình trên làng.
“Khi trung ương đủ mạnh để giữ thái bình, thì mặc dù vẫn để làng có quyền tự trị nhất định, nhưng trung ương vẫn luôn kiểm soát việc trong làng. Nhưng khi thời loạn, làng xã lúc đó có thể lơ là với lệnh ở trên ban xuống.”
Khi Việt Nam bắt đầu lấy lại độc lập từ Trung Quốc khoảng thế kỷ 10, đã luôn có nỗ lực từ các lãnh đạo muốn kiểm soát làng xã. Tuy vậy, thời gian này, quyền lực và sự kiểm soát nói chung còn phân tán.
Nỗ lực từ trung ương
Khi nhà Hậu Lê thành lập, triều đại này ngay lập tức nhắm tới việc tập trung hóa.
Năm 1428, Lê Thái Tổ phân chia lãnh thổ thành các đơn vị, gọi là tiểu xã, trung xã và đại xã.
Viên quan cai trị làng gọi là xã quan, đến thời Lê Thánh Tông lại được gọi là xã trưởng, thuộc dưới quyền của các huyện và châu – những đơn vị hành chính phụ thuộc trung ương.
Bên cạnh người điều khiển việc hành chính của làng, lại có một ‘hội đồng kỳ mục’, gồm những người máu mặt trong làng.
Những cải tổ dưới thời các vị vua đầu tiên nhà Lê đánh dấu bước ngoặt mới trong mức độ nhà nước tìm cách kiểm soát nguồn tài nguyên trên toàn quốc.
Một trong các chính sách quan trọng nhất là vấn đề đất đai của nhà nước (công điền).
Công điền được phân bổ định kỳ sáu năm một lần cho dân làng và dựa trên địa vị xã hội. Đất không được bán hoặc chuyển giao từ bố sang con. Mục tiêu chính của nhà Lê lúc này là đưa ruộng đất về sở hữu của trung ương. Bằng cách đó, chính quyền khá thành công trong mục tiêu tách các làng và tài nguyên của làng riêng khỏi nhau, đưa tất cả đi cùng một hướng về kinh đô trung ương.
Thời kỳ đầu của nhà Lê tương đối thái bình; nhưng từ giữa thế kỷ 16, chế độ quân chủ suy thoái. Tình trạng nội chiến là lo toan lớn nhất cho các thủ lĩnh địa phương, những người quan tâm nhiều hơn đến việc thắng trận hơn là kiểm soát làng xã.
Sự suy thoái của quyền lực nhà nước khiến các làng xã giờ đây có khuynh hướng tăng tính tự trị bởi vì người dân lúc này phải tự lo cho mình để tồn tại.
Tình hình loạn lạc chủ yếu có lợi cho các nhân vật máu mặt trong làng, những người lợi dụng thời thế để thu vén đất đai, của cải. Còn những nông dân nghèo khổ trên đường kiếm sống đã tìm đến phụng sự cho các gia đình máu mặt để được bảo vệ.
Đến lúc nhà Lê chấm dứt, sự tự trị của xã đã đi xa tới mức xã giờ đây là đơn vị hành chính duy nhất mà chính quyền trung ương có sự liên lạc.
Xã trở nên quan trọng hơn đơn vị gia đình đến mức khi có lỗi xảy ra, trách nhiệm giờ đây mang tính tập thể, chứ không còn cá nhân. Chẳng hạn, việc phát hiện một thi thể trong đất của một làng có thể dẫn đến việc trừ diệt hoặc trục xuất toàn bộ thành viên trong làng.
Nhà nước và làng dưới thời Nguyễn
Khi Gia Long lên ngôi, ông muốn tái áp đặt sự kiểm soát của nhà nước chặt chẽ hơn lên lãnh thổ.
Tuy vậy, GS. Nguyễn Thế Anh nói chế độ hành chính của nhà Nguyễn đặt trên một hạ tầng cơ sở mà không đủ sức để nuôi bộ máy hành chính.
“Hệ thống quan liêu của nhà Nguyễn thật ra không đông đảo cho lắm, nếu ta dựa vào thống kê. Có lẽ chế độ quan liêu của nhà Nguyễn chỉ độ chừng 2000 người dùng để cai trị tổng số dân là 10 triệu – như thế thật quá ít.”
“Sự kiểm soát của chính quyền đã không chặt chẽ, cộng với nền kinh tế ngày càng suy thoái, với nạn đói xảy ra, điều không tránh khỏi là loạn lạc nổ ra.”
Khi thực dân Pháp đến Viêṭ Nam, họ vẫn có xu hướng muốn tập trung quyền hành vào trung ương.
Chế độ thuộc địa Pháp và làng Việt
Tuy vậy, người Pháp vẫn giữ lại các tổ chức cũ để cai trị dễ dàng hơn, trong đó có giữ lại tổ chức làng xã.
Mặt khác, GS. Nguyễn Thế Anh nhấn mạnh rằng tổ chức hành chính thuộc địa có điểm đặc biệt là vì có sự phân biệt thành ba vùng: Nam Kỳ là thuộc địa, Trung Kỳ là quốc gia bảo hộ, Bắc Kỳ cũng là quốc gia bảo hộ nhưng tại đó người Pháp cai trị trực tiếp hơn.
Vì thế, tuy các làng vẫn được duy trì, nhưng về chi tiết, các làng được cai quản khác nhau tùy theo ba miền.
“Dân làng trong thời kì này không những phải tuân lệnh cấp trên cũ, tức là lý trưởng, hội đồng kỳ mục, mà còn phải tuân lệnh người Pháp. Có lẽ sinh hoạt làng xã dưới thời Pháp thuộc còn bê bết nhiều hơn trước.”
“Điều đó dẫn đến hệ quả là quan hệ giữa dân làng với người cai quản như lý trưởng càng xấu đi. Nhất là khi thời khó khăn, người cầm quyền trong làng bị quy tội là đã cai trị hà khắc. Vì vậy, khi phong trào Việt Minh phát triển, họ đã có thể thu phục được lòng dân chúng.”
Khi được hỏi từ sau 1945, mối quan hệ nhà nước – làng xã đã thay đổi thế nào, GS. Nguyễn Thế Anh nói cơ cấu hành chính đã nhiều thay đổi.
Hội đồng kỳ mục dường như đã được thay bằng ủy ban hành chính phương hoặc xã.
“Những ủy ban đó hoàn toàn phụ thuộc với trung ương, với đảng. Người dân lại tuân theo chỉ thị của đảng thông qua các ủy ban hành chính. Đó không còn giống sự giao tế giữa dân làng và trung ương như trước.”
Theo: BBC/Vietnamese
Thursday, October 29, 2009
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment